Mẫu Đệ Nhị Địa Tiên là ai ?
Mẫu Đệ Nhị Địa Tiên còn gọi là Mẫu Liễu Hạnh, Mẫu Thoải là một trong những vị thánh Mẫu tiêu biểu nhất trong văn hoá thờ cúng Tứ Phủ của người Việt Nam.Thánh Mẫu Đệ Nhị Địa Tiên là một trong bốn vị Tứ Phủ Thánh Mẫu được coi là vị nữ thần cai quản đất đai. Còn trong Tam toà Thánh Mẫu thì vị trí chính giữa là Mẫu Địa Tiên (vì Ngài đại diện cho Mẫu Thiên Tiên trên cõi trần), Cô mặc đồ màu đỏ. Nếu có bốn vị Thánh Mẫu thì Mẫu Địa Tiên sẽ ngồi kế bên tay phải của Mẫu Thiên Tiên mặc đồ màu vàng.
Các truyền thuyết về Mẫu Đệ Nhị Địa Tiên
Truyền thuyết về Mẫu Đệ Nhị Địa Tiên và Chàng Lía:
Chàng Lía là một học sinh thông minh, tài giỏi, đã đậu trạng nguyên. Mẫu Địa Tiên ngưỡng mộ năng lực cùng đức hạnh của Chàng Lía cho nên đã hết lòng thương yêu. Vì để gìn giữ chữ tín, Chàng Lía đã khước từ tình yêu của Mẫu Địa Tiên. Mẫu Địa Tiên làm phép giúp đỡ Chàng Lía trải qua nhiều khó khăn gặt hái được thành công.
Truyền thuyết về Mẫu Đệ Nhị Địa Tiên và Lê Lợi:
Trong kháng chiến với giặc Ngoại xâm, Mẫu Địa Tiên đã âm thầm giúp đỡ vua Lê Lợi đánh thắng giặc. Mẫu Địa Tiên ban tặng cho vua Lê Lợi cây kiếm báu Thuận Thiên để đánh giặc. Mẫu Địa Tiên đã giúp đỡ nghĩa quân lương thực, súng đạn và quân lính.
Thánh Mẫu Đệ Nhị Địa Tiên Giáng Sinh lần thứ nhất (1434 – 1473)
Tại Bắc Kỳ trấn Sơn Nam, tỉnh Nam Định, phủ Nghĩa Hưng, huyện Đại An, xã Trần Xá, có một người tên là Phạm Thái Ông, hiệu là Huyền Viên, huý là Đức Chánh. Vợ ông là bà Phạm Thái Bà, hiệu là Thuần Nhứt, quản ở Miêu Duệ.
Hai ông bà đều hiền lành, phúc hậu, ngày đêm chỉ lo vun trồng cội đức, giúp đỡ người nghèo. Tuy nhiên, họ vẫn buồn vì chưa có con nối dõi.
Thường ngày, hai ông bà cầu khấn trời Phật cho có con. Lòng thành cảm động trời xanh, Đức Ngọc Hoàng động tâm, xét sổ Nam Tào thấy Phạm Thái Ông khi xưa làm Phó sử Thiên triều Khâm Sai tra số có điều bất công nên phải giáng trần.
Đức Ngọc Hoàng truyền Đệ Nhị Tiên Nương xuống trần đầu thai làm con nhà họ Phạm, sau sẽ trở về Linh Tiêu. Tiên Nương tuân lệnh.
Năm Quý Sửu (1433), triều vua Lê Thái Tổ, đêm rằm tháng sáu, Đức Tiên Chúa giáng trần.
Trước khi giáng trần, Tiên Nương lạy tạ Đức Hoàng Phụ, Mẫu Hậu, dặn dò các vị quần Tiên và bay xuống trần gian cùng đoàn Tiên Nga.
Đêm đó, Phạm Thái Ông mơ màng thấy các vị Tiên Nga vào nhà, mùi thơm ngào ngạt. Khi tỉnh dậy, ông thấy vợ đã sinh một người con gái xinh đẹp như tiên nữ.
Đứa bé được đặt tên là Tiên Nga.
Phạm Thái Ông và Phạm Thái Bà chăm sóc con gái rất chu đáo.
Năm Mậu Ngọ (1438), khi Tiên Nga lên năm tuổi, Ngài đã biết mình thác sinh vào nhà giàu, không vui vì không thể báo hiếu cha mẹ.
Năm Quý Hợi (1443), khi Tiên Nga lên mười tuổi, Ngài đã rất hiếu thảo, cung phụng cha mẹ.
Một đêm mùa đông, Phạm Thái Ông lâm bệnh nặng. Tiên Nga lo lắng, thắp hương cầu khấn trời Phật phù hộ cho cha.
Phạm Thái Bà không thấy con, đi tìm thì thấy con đang cầu nguyện.
Câu chuyện tiếp theo sẽ kể về những gì xảy ra tiếp theo với Tiên Nga và gia đình…
Sau khi cha mẹ qua đời, Đức Tiên Chúa lo toan mọi việc tang lễ chu đáo. Sau đó, bà dốc lòng tu hành, báo đáp ơn sinh thành.
Đức Thượng Đế biết lòng hiếu thảo của bà nên cho bà sống thêm mười năm nữa. Trong thời gian này, bà làm việc thiện, giúp đỡ người nghèo, xây chùa lập miếu.
Đến hạn về trời, Đức Tiên Chúa tắm rửa, thay xiêm áo, rồi lên xe loan bay về Thiên Cung.
Quần Tiên chào đón bà và cùng bà vào bái yết Đức Ngọc Hoàng. Sau đó, bà thăm hỏi các vị tiên nga và chị em trong cung Quảng.
Đức Tiên Chúa sống ở Thiên Cung thanh nhàn, vui vẻ.
Thánh Mẫu Giáng Sinh lần thứ hai (1557 – 1577)
Tại làng Vân Cát, xã An Thái, huyện Thiên Bản, phủ Nghĩa Hưng, tỉnh Nam Định có một người tên là Lê Thái Ông, hiệu là Đức Chính, vợ là Trần Thị Tự, hiệu là Phúc Thuấn. Hai ông bà hiền lành, phúc đức, thường làm việc thiện.
Năm Lê Thiên Hựu nguyên niên (1557), Lê Thái Bà mang thai lần thứ hai. Khi thai đã đủ tháng, bà chỉ thích ăn hoa quả, không ưa thức mặn. Gia đình lo lắng, mời thầy phù thủy đến trừ tà nhưng không hiệu quả.
Một đêm tháng ba, một đạo sĩ xuất hiện, tự xưng có phép thuật, xin vào nhà chữa bệnh. Ông ta niệm chú, ném búa ngọc xuống đất khiến Lê Thái Ông mê man. Hai lực sĩ dẫn ông đi qua nhiều tầng trời, đến cửa Kim Khuyết.
Tại Thiên Đình, Lê Thái Ông chứng kiến cảnh tượng uy nghi, tráng lệ. Ông thấy Đức Ngọc Hoàng Thượng Đế đang thịnh nộ với một vị Tiên Nữ mặc áo hồng y vì vi phạm quy tắc. Tiên Nữ bị trích giáng trần.
Lê Thái Ông tỉnh dậy, Lê Thái Bà đã sinh hạ một bé gái xinh đẹp. Mọi người cho rằng bé gái là hiện thân của Tiên Nữ giáng trần, đặt tên là Lê Thị Thắng, hiệu là Giáng Tiên.
Giáng Tiên lớn lên xinh đẹp, thông minh, hiếu thảo. Khi lên mười tuổi, Giáng Tiên xin phép cha mẹ ra ở riêng để tịnh dưỡng và học tập.
Một ngày, Lê Thái Ông nghe Giáng Tiên gảy đàn, tiếng đàn thanh tao như nhạc Trời. Ông lo lắng cho tương lai của con gái, bàn với vợ gả Giáng Tiên cho Trần Đào Lang, một thanh niên tài giỏi, con của quan Trần Công.
Giáng Tiên không muốn kết hôn vì muốn thanh tu, nhưng cha mẹ nhất quyết ép buộc. Cuối cùng, Giáng Tiên đành chấp nhận.
Năm mười tám tuổi, Giáng Tiên về nhà chồng. Giáng Tiên hiếu thảo với cha mẹ chồng, giữ gìn đạo vợ chồng, được mọi người kính phục.
Một năm sau, Giáng Tiên sinh con trai đầu lòng tên là Trần Nhâm. Giáng Tiên và Trần Đào Lang sống hạnh phúc bên nhau.
Nhưng, bất hạnh thay, Giáng Tiên đột ngột qua đời khi mới hai mươi mốt tuổi. Cha mẹ, chồng con và mọi người vô cùng thương tiếc.
Lê Thái Ông đau buồn, không lâu sau cũng qua đời. Mộ của hai ông bà được táng cạnh nhau tại làng An Thái.
Về sau, xã An Thái được đổi tên thành xã Tiên Hương để tưởng nhớ Đức Thánh Mẫu Liễu Hạnh.
Đức Tiên Chúa trở lại thiên đình (1577 – 1579)
Sau khi về trời, Đức Tiên Chúa vẫn luôn canh cánh trong lòng vì duyên trần dang dở.
Mỗi lần lên chầu Ngọc Hoàng, bà đều buồn rầu, sầu muộn. Khi dự tiệc của Vương Mẫu, bà cũng ủ dột, nét mặt đượm buồn. Các vị Quần Tiên thấy vậy, thương cảm cho bà nên tâu bày cùng Đức Thượng Đế.
Đức Thượng Đế cảm động trước lòng hiếu thảo và những việc làm cao cả của Đức Tiên Chúa nên đã sắc phong bà làm “Liễu Hạnh Công Chúa”.
Ngài cho phép bà giáng trần phi thường, tùy ý tiêu diêu để giải tỏa nỗi u sầu.
Sự kiện này xảy ra vào năm Kỷ Mão, niên hiệu Quang Hưng nhị niên (1579), triều vua Lê Thế Tôn.
- Mẫu Liễu Hạnh Công Chúa
- Trung Thiên Thánh Mẫu
- Bộ Tranh Tứ Bất Tử
- Tam Toà Vân Hương Thánh Mẫu
Đức Tiên Chúa giáng lần thứ ba (1579)
Đức Tiên Chúa hiện thân về thăm quê hương lần thứ nhất.
Năm Kỷ Mão (1579), sau khi hoàn thành sứ mệnh trên Thiên Đình, Đức Tiên Chúa trở về quê nhà.
Lúc này, gia đình đang cúng giỗ một năm ngày mất của bà. Lê Thái Bà nhớ con da diết, ra thư phòng kiểm tra lại đồ dùng của con thì thấy cảnh vật bám đầy bụi bặm, lòng bà càng thêm đau khổ và ngất đi.
Bỗng nhiên, một trận gió nhẹ thổi qua, Đức Tiên Chúa hiện thân ôm lấy mẹ và nói:
“Mẹ ơi, con đã về thăm mẹ.”
Lê Thái Bà mở mắt, nhìn thấy con gái, mừng rỡ hỏi:
“Con đi đâu về vậy? Con không phải đã chết rồi sao?”
Đức Tiên Chúa rơi lệ, nói:
“Con thật bất hiếu, khiến cha mẹ lo lắng. Con không muốn rời xa cha mẹ, nhưng số phận đã định, con phải trở về Thiên Đình.”
Nói rồi, bà quay sang anh trai, dặn dò anh chăm sóc cha mẹ. Sau đó, bà đến bên chồng, an ủi chàng và mong chàng hãy giữ gìn sức khỏe.
Tiếp theo, bà đến lạy tạ cha mẹ chồng và hứa rằng sẽ báo đáp ơn sinh thành của hai ông bà.
Chàng Đào ôm con trai, nghẹn ngào không nói nên lời. Đức Tiên Chúa bế con, âu yếm và dặn dò chồng:
“Mong chàng hãy kiên cường, vì con và vì cha mẹ.”
Nói xong, bà sụp lạy chồng hai lậy rồi biến mất. Cả nhà ai cũng khóc thương bà vô cùng.
Khi Đức Tiên Chúa biến mất, một ánh hào quang và mùi thơm ngào ngạt lan tỏa khắp nhà.
Câu chuyện Đức Tiên Chúa về thăm gia đình thể hiện lòng hiếu thảo, tình cảm sâu nặng của bà với cha mẹ, chồng con.
Đức Tiên Chúa hiện thân về thăm quê hương lần thứ hai
Sau khi Đức Tiên Chúa về trời, chàng Đào ôm nỗi buồn thương, một mình nuôi con. Ít lâu sau, chàng quyết định lên kinh học tập và mang con theo.
Vì thương con, nhớ vợ, chàng Đào không thể tập trung học hành. Một hôm, trời sang thu, gió lạnh và mưa lất phất, lòng chàng càng thêm buồn bã. Chàng bồng con ngồi ngâm hai bài thơ tứ tuyệt để giải tỏa nỗi niềm:
Bài 1:
Trời thu se lạnh, gió hiu hiu,
Mưa lất phất rơi, lòng sầu biu.
Nhớ thương người vợ đã xa lìa,
Bơ vơ con trẻ, lệ tuôn trào.
Bài 2:
Kinh đô xa cách, nỗi niềm riêng,
Lẻ bóng cha con, lạnh buốt đêm.
Mong sao gặp lại người xưa cũ,
Để vơi bớt sầu, cõi lòng yên.
Đức Tiên Chúa hiển linh ở Đèo Ngang, Phố Cát, Ba Dội
Sau khi bị trích giáng, Đức Tiên Chúa mang trong lòng sự uất hận vì duyên trần dang dở. Khi tái giáng, bà thường xuyên biến hóa, lúc thành cô gái đẹp bán trầu rượu, lúc thành bà lão bán hàng.
Vẻ đẹp của bà khiến nhiều kẻ si mê, nhưng khi không đạt được ham muốn, họ lại đặt ra những câu hát để trêu chọc. Đức Tiên Chúa giáng họa cho những kẻ vô lễ, khiến họ phải kính phục và cầu khấn bà.
Bà thương cha mẹ già yếu, chồng con thơ dại nên mở quán rượu để kiếm tiền phụ giúp gia đình. Khi cha mẹ qua đời, chồng bà lâm bệnh, bà nhờ anh trai chăm sóc con thơ và dặn dò trước khi nhắm mắt xuôi tay.
Con trai bà được anh trai nuôi dưỡn, nhưng bà vẫn u uất vì căm hận kiếp người. Đức Tiên Chúa thường trừng phạt những kẻ ác, khiến nhiều người oán thán.
Khám phá kho tàng sắc phong của Phủ Dầy: Hành trình tôn vinh Thánh Mẫu Liễu Hạnh
Hệ thống sắc phong ở Phủ Dầy là bằng chứng về di sản văn hoá đặc sắc có ý nghĩa lịch sử lâu dài. Các đạo sắc phong được lưu truyền từ đời vua Lê đến triều Nguyễn, với đạo gần nhất cách nhau khoảng 300 năm, đem đến cho hậu thế một cái nhìn sâu rộng về phong tục thờ cúng Mẫu Liễu Hạnh cùng lòng kính trọng của các bậc đế vương đến vị Nữ thần này. Bộ sưu tầm sắc phong ghi chép lại quá trình xuất hiện cùng tầm quan trọng lớn lao của Thánh Mẫu Liễu Hạnh. Từ ngày xuất hiện ở thôn Tiên Hương, trải qua bao thời đại, Mẫu Liễu Hạnh đã ra tay cứu người, mở đường, đánh giặc, trị vì đất nước. Nhờ những công trạng to lớn, Thánh Mẫu được các đời vua ban tặng nhiều đạo sắc phong, suy tôn Mẫu là vị Nữ thần tối thiêng, quyền năng cai quản Trời đất, thống trị Con người, có công lao Bảo vệ, trị Nước.
- Sắc phong “Đệ Nhất Liễu Hạnh” niên hiệu Vĩnh Khánh năm thứ 2 (1730) là một trong những đạo sớm nhất, thể hiện sự tôn kính đặc biệt của triều đình đối với Mẫu.
- Sắc phong “Đế Thích Thiên Đình Cẩm Tú Phương Phi” niên hiệu Cảnh Hưng năm thứ 44 (1783) khẳng định vị trí tối cao của Mẫu Liễu Hạnh trong tín ngưỡng thờ Mẫu.
- Sắc phong “Đệ Tam Thánh Mẫu” niên hiệu Chiêu Thống nhị niên (1787) ghi nhận công lao của Mẫu trong việc giúp dân, trừ tà, diệt ác.
Đền thờ Mẫu Đệ Nhị Địa Tiên ( Mẫu Liễu Hạnh ) ở đâu ?
- Đền thờ Mẫu Đệ Nhị Địa Tiên
- Khu di tích Phủ Dầy Nam định
- Đền Mẫu Sòng Sơn
- Phủ tây Hồ thờ liễu hạnh công chúa
- Đền Mẫu Đồng Đăng
- Đền Phố Cát thờ Liễu Hạnh Công Chúa
- Lăng Mộ Mẫu Liễu Hạnh
Ai nên thờ Mẫu Đệ Nhị Địa Tiên
Việc thờ phụng Mẫu Đệ Nhị Địa Tiên là tùy thuộc vào niềm tin và tín ngưỡng của mỗi cá nhân. Tuy nhiên, theo quan niệm dân gian, những người sau đây nên thờ Mẫu Địa Tiên:
1. Người làm nghề nông:
- Nông dân: Mẫu Địa Tiên là vị thần cai quản miền đất liền có quyền năng ban cho mùa màng bội thu giúp người nông dân có cuộc sống sung túc.
- Chủ trang trại: Mẫu Địa Tiên có thể bảo vệ gia súc, gia cầm khỏi dịch bệnh giúp cho việc chăn nuôi phát triển.
- Người bán đất đai: Mẫu Địa Tiên là vị thần cai quản đất đai có thể phù hộ cho việc mua bán đất đai diễn ra thuận lợi.
2. Người gặp khó khăn trong cuộc sống:
- Người gặp tai ương: Mẫu Địa Tiên có lòng nhân ái luôn cứu giúp những người gặp tai ương, hoạn nạn.
- Người bệnh tật: Mẫu Địa Tiên có phép thuật phi thường có thể chữa lành bệnh tật cho con người.
- Người cầu tài lộc: Mẫu Địa Tiên có thể ban phước lành cho con người giúp họ gặp nhiều may mắn và thành công trong cuộc sống.
3. Người có lòng thành kính:
- Tín đồ Tứ Phủ: Mẫu Địa Tiên là một trong những vị thánh quan trọng trong tín ngưỡng Tứ Phủ.
- Người yêu thích văn hóa tâm linh: Mẫu Địa Tiên là biểu tượng của lòng nhân ái, đức hy sinh và sức mạnh vô biên, được nhiều người tôn kính.
Người có căn Mẫu Đệ Nhị Địa Tiên
Người có căn Mẫu Đệ Nhị Địa Tiên sẽ có khả năng nghe thấy những điều tâm linh. Họ hay có trực giác tốt nên luôn đưa ra được những phán đoán sáng suốt. Một số người có căn Mẫu Đệ Nhị Địa Tiên có khả năng nhìn thấy hoặc nghe thấy những điều mà người khác không thể thấy hoặc nghe thấy. Họ cũng có năng khiếu về hội hoạ, âm nhạc, hoặc khiêu vũ.